Liên kết hữu ích cho người dùng, danh sách các website ngành y tế uy tín nhất hiện nay: Trung Tâm Thuốc Central Pharmacy: trungtamthuooc.com Báo sống khỏe 24h: www.songkhoe24h.com/ Nhà thuốc Vinh Lợi: https://nhathuocvinhloi.muragon.com/ tạp chí làm đẹp eva fashion: https://evafashion.com.vn/ Tạp chí y học việt nam: https://tapchiyhocvietnam.com/

2017年06月

Một số công ty khởi nghiệp do những phụ nữ Mỹ lập, cho ra đời những kiểu trang phục phù hợp với nữ lao động chân tay, vào lúc những việc làm đòi hỏi sức lực không còn của riêng nam giới nữa.

Các công ty khởi nghiệp này nhắm vào thị trường trang phục lao động không có kiểu dành cho phụ nữ Mỹ vốn đang nhảy vào những việc làm trước đây dành cho nam giới, như làm nông, mở trang trại… Số liệu của Bộ Lao động Mỹ cho biết phụ nữ tham gia nhiều vào các ngành liên quan nông nghiệp, 18,3 % lao động nữ ở kho bãi, 20,4% ở mảng luyện kim… Các số liệu này cho thấy phụ nữ cần có trang phục lao động riêng, không còn phải trông nhờ vào quần áo lao động dành cho nam vốn vừa không thoải mái vừa có thể mất an toàn lao động, ví dụ nguy cơ tay áo quá dài bị cuốn vào máy.

Sarah Calhoun từng có nhiều năm làm những việc đòi hỏi sức lực, từng phải dùng băng keo “vá” đáy chiếc quần nam cô mặc bị rách toạc. Cô đã tìm đến nhiều công ty may trang phục lao động nam, để biết liệu họ có sản xuất trang phục lao động cho nữ, nhưng câu trả lời là sự thờ ơ của lãnh đạo các công ty này.

Sau hai năm học may - vá ở một công ty sản xuất túi ba-lô, năm 2006, Calhoun lập công ty trang phục lao động nữ “Quần Kiến Đỏ” (Red Ants Pants). Nay, công ty Red Ants Pants có 10 nhân công, sản xuất nhiều kiểu trang phục, và kiểu quần “Kiến Đỏ” gốc có giá 139 USD. Doanh thu của công ty khoảng 500.000 USD/năm.

Bà Taylor Johnson giám đốc mảng nhà kính - vườn của bảo tàng Isabella Stewart Gardner ở Boston, cần có loại quần áo giúp bà thoải mái khi làm việc, đồng thời giúp thể hiện rõ vai trò của bà. Bà không thể mặc quần áo lao động dành cho nam vì không vừa và khiến bà có vẻ không chuyên nghiệp.

Đó là lý do bà lập công ty Gamine năm 2014, với mục tiêu sản xuất quần áo lao động cho nữ, gồm quần, quần áo mặc ngoài và quần yếm (may liền với miếng che ngực của công nhân)

Như cô Calhoun, bà Johnston chẳng hề có kinh nghiệm về quần áo khi quyết định mở công ty Gamine. Bà học nghề may suốt 2 năm trước khi tạo ra sản phẩm nổi tiếng của Gamine: chiếc quần lao động bằng vải trúc bâu thô. Phải mất nhiều mẫu mới ra được mẫu đầu tiên, vừa khít thân thể một người mẫu khi hai người làm việc với nhau. Bà chọn cách thử nghiệm mẫu này ở trong nhà, ngoài trời, lúc trời nóng hoặc ướt. Rồi bà ngưng bán kiểu quần này để cải tiến theo phản ánh của những người mua đầu tiên. Nay, quần này có 14 kiểu, giá 150 USD/chiếc.

Trước đây, người lao động thích chi nhiều tiền mua trang phục lao động, với suy nghĩ họ có thể khâu chúng để sử dụng lâu dài. Để xóa nỗi lo về giá cả, Gamine hứa bảo đảm sửa sản phẩm miễn phí, chịu cả chi phí nhận - giao các trang phục mà khách hàng cần sửa.

Sharon Moore ghi nhận 70% các nông trại nhỏ ở Mỹ có nhiều lao động nữ, và cô nhìn ra một cơ hội cho công ty khởi nghiệp Rosies Workwear do cô lập năm 2003, sau khi cô cần một bộ quần áo mặc ngoài cho lớp dạy hàn mà tìm không ra bộ nào dành cho thợ hàn nữ.

Hai năm qua, doanh số công ty tăng gấp đôi. Công ty có 4 người, vừa chuyển đến một tòa nhà mới, to hơn. Hàng bán chạy nhất của Rosies Workwear là bộ áo liền quần, nhiều màu - như màu hồng - và có vẽ hoa. Moore nói: “Tôi thật sự muốn màu hồng hoặc xanh lá cây, vì tôi đã phát chán việc mình luôn giống bọn con trai. Các kiểu trang phục của chúng tôi như nói lên “ê, tôi là đàn bà mà làm việc này đó nhe”. Đấy là một tuyên ngôn thật sự quan trọng cho vài người phụ nữ”. Gần đây, Rosies Workwear phải chuyển khâu sản xuất từ Mỹ qua Trung Quốc để giảm giá thành, nhằm thu hút được nhiều khách mới có thể trở thành thương hiệu lớn.

Theo Moore, kênh tiếp thị hiệu quả nhất của dòng sản phẩm này là truyền miệng qua mạng xã hội: Không ít phụ nữ chụp ảnh tự sướng khi mặc trang phục lao động rồi tải lên mạng, như biểu tượng của sức sống, sự thoải mái trong công việc.

Theo New York Times

Bài viết được đăng tải trên diễn đàn SEOTime.edu.vn
Link bài viết: Nhiều phụ nữ Mỹ khởi nghiệp với "thời trang xù xì"

Báo chí đang đánh mất dần uy tín và tính tin cậy. Đây không phải là vấn đề riêng của báo chí, mà còn là “thảm họa” của những người thực hành PR.

Nhìn lại báo chí đầu thập niên 1990, những tờ báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Lao Động, Đầu Tư khách quan, trung thực… cùng tên tuổi của các nhà báo nhiệt huyết, tự trọng và trong sáng, cùng các thiên phóng sự điều tra, những bài bình luận sắc bén, và những bản tin nóng bỏng trên trang nhất, là những cơ sở xác tín để người dân và cộng đồng doanh nhân tin cậy và tìm đọc mỗi ngày. Ngày ấy chúng ta tin vào các bài báo và ngòi bút của các nhà báo, cũng như những người làm truyền thông cho doanh nghiệp tin rằng nếu được báo chí đăng tải thông tin thì sẽ có cơ hội củng cố niềm tin và sự thấu hiểu của khách hàng.

Sự bùng nổ của truyền thông mới, rồi mạng xã hội kéo theo sự suy thoái về hoạt động thương mại của báo chí truyền thống. Ngay cả báo điện tử cũng không phải dễ dàng, thậm chí cũng chịu thiệt thòi khi 85% doanh thu quảng cáo rơi vào tay kẻ trung gian là Google và Facebook. Thước đo thành công của một bài báo và tác giả của nó phụ thuộc vào lượng người xem, đồng nghĩa với cơ hội có thêm thu nhập từ cơ chế quảng cáo Google AdSense (hoạt động bằng cách so khớp quảng cáo văn bản và quảng cáo hiển thị hình ảnh với trang web thông tin dựa trên nội dung và khách truy cập). Thực tế này khiến phóng viên phải lựa chọn những chủ đề câu khách, rẻ tiền, thậm chí cố tính gây scandal hay sai lệch thông tin, loại nội dung dễ dàng được cộng đồng dễ dãi và nông nổi a dua, chia sẻ trên mạng.

Mới đây, một câu phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, có trích dẫn câu nói nổi tiếng của nhà tư bản dân tộc Bạch Thái Bưởi, “Tôi muốn làm cho Hà Nội tươi đẹp như Paris”, đã bị nhiều báo rút tít thành ý của chính ông, khiến cộng đồng mạng tư duy hời hợt và ít chịu tìm hiểu ngọn ngành, lấy cớ đùa cợt, bỉ bôi. Những ví dụ như vậy còn rất nhiều, đặc biệt nguy hiểm đối với các doanh nghiệp. Nhiều nhà báo cố tình truy vấn các sai sót của doanh nghiệp, đẩy vấn đề vượt quá phạm vi của nó, hoặc chỉ đề cập đến vấn đề mà không đả động đến giải pháp khắc phục của doanh nghiệp, khiến công chúng hoang mang vì thiếu hụt thông tin. Một động thái tích cực chăm sóc khách hàng, triệu hồi sản phẩm có nghi vấn để sửa chữa, sẽ được đẩy thành quy kết cho sản phẩm kém chất lượng, gây hoang mang cho người tiêu dùng. Một doanh nghiệp bất động sản đang thương thảo chậm nộp một khoản thuế bỗng biến thành nguy cơ tiềm tàng đối với khách hàng ngay cả khi chưa mở bán, gây tâm lý e ngại lan truyền.

Đó là chưa kể xuất hiện ngày càng nhiều những người làm báo kiếm cớ đe dọa doanh nghiệp, cá nhân để trục lợi. Họ liên kết với nhau, thành các nhóm mafia, liên kết, móc ngoặc, chia sẻ thông tin, đánh hội đồng doanh nghiệp, để rồi lại đứng ra xử lý khủng hoảng cho chính doanh nghiệp đó bằng các thoả thuận bảo trợ thông tin mờ ám.

Tất cả những thực tế ấy khiến người dân mất dần niềm tin vào báo chí. Công chúng đành tin vào những đoạn trạng thái, bình luận mà họ thấy trên mạng xã hội, mà không có điều kiện kiểm chứng thực tế. Trong 48 triệu tài khoản Facebook tại Việt Nam, chỉ có một tỷ lệ nhỏ những người đủ công tâm và khả năng truy vấn nguồn gốc thông tin, khách quan đưa tin hoặc bình luận độc lập. Doanh nghiệp hoang mang vì mất đi kênh thông tin trung gian đáng tin cậy, bị quăng quật giữa bão tố của mạng xã hội, của tin tức giả, những phát ngôn gây thù hận và tin đồn thất thiệt. Một bánh trung thu Kinh Đô bị tố quy trình sản xuất bẩn bằng một phóng sự không có nguồn xác tín, một nước uống Sting bị tố gây ngộ độc chết người bằng hình ảnh giả mạo, một thương hiệu sữa Danlait bị vùi dập vì sự vô minh của những bà mẹ mù quáng.

Trong cái thế giới truyền thông mong manh và dễ vỡ đó, doanh nghiệp chỉ có thể tự cứu mình bằng cách tạo ra những kênh thông tin riêng, cố gắng minh bạch hoá để kiến tạo uy tín đối với công chúng. Đó có thể là một trang website thông tin, một trang fanpage, một kênh video YouTube, hay một ấn phẩm được đầu tư nghiêm túc. Chúng tôi gọi nó là owned media – những kênh truyền thông do doanh nghiệp sở hữu và phát triển.

Nhưng, trong cái thế chân kiềng 3M của owned media (kênh do doanh nghiệp sở hữu) – earned media (kênh báo chí độc lập) – pay media (các kênh trả tiền), báo chí vẫn là một kênh cực kỳ quan trọng. Đối với PR, các kênh truyền thông trung gian, trung lập và khách quan, mới là những lá bài chủ đạo để cung cấp thông tin có thật và chính xác đến với công chúng. Câu hỏi là, làm thế nào để công chúng quay trở lại, đặt niềm tin vào các kênh báo chí đó?

Trên thế giới đang hình thành những liên minh báo chí chống lại sự lũng đoạn về thương mại của Google và Facebook, như Condé Nast – Vox Media – NBCUniversal hoặc National Geographic – Mashable – the Skimm – Atlas Obscura, có lẽ cung cần có những liên minh đảm bảo cho tính trung thực, khách quan của một nhóm báo chí tiên phong. Công chúng cần những nguồn tin xác tín để tin cậy trước biển cả thông tin thực giả lẫn lộn mênh mông. Những người làm truyền thông cần những nguồn tin xác tín để gửi gắm thông tin minh bạch của doanh nghiệp mình, khách hàng của mình, nơi mà công chúng sẽ tìm đến để kiểm chứng thông tin trên mạng xã hội.

Chúng tôi gọi đó là những nguồn tin xác tín (trusted news sources). Những kênh thông tin này phải được xây dựng từ liên minh những cơ quan báo chí uy tín, cam kết khách quan và có cơ chế quản lý đảm bảo sự tác nghiệp công bằng, có sự đầu tư sâu về nội dung, và giảm thiểu bị chi phối bởi các nhóm lợi ích kinh tế.

Có thể, nhiều người cho rằng đó là ước mơ không tưởng, nhưng xin lưu ý cho rằng, chúng ta từng có những tờ báo như thế.

Lê Quốc Vinh
Chủ tịch & CEO
Le Group of Companies

Bài viết được đăng tải trên diễn đàn SEOTime.edu.vn
Link bài viết: TÌM LẠI NHỮNG NGUỒN TIN XÁC TÍN

↑このページのトップヘ